30/03/2016

TƯ TƯỞNG MAO TRẠCH ĐÔNG: CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN BÀNH TRƯỚNG BÁ QUYỀN TRUNG CỘNG


DÂN ĐỒNG ĐẾ 

 


Từ năm 1949, sau khi chiếm được Hoa lục, thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và hoàn thành công việc tổ chức toàn trị, lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu thực hiện tham vọng đưa Trung Cộng trở thành một ‘cường quốc bậc nhất thế giới’ và thực hiện mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn đối với các nước khác.  
 



1- Chiến lược toàn cầu của Trung Cộng 

Mao Trạch Đông bắt đầu công khai thực hiện cái gọi là ‘Lý thuyết vùng trung gian’. Lý thuyết vùng trung gian được Mao đề cập từ năm 1946 trong cuộc nói chuyện với nhà báo Mỹ A. L. Strong. Theo Mao, giữa Liên Xô và Mỹ cứ ganh đua mãi không ai nhường ai nên tất yếu phải xảy ra chiến tranh. Đứng trước cuộc chiến tranh đó, hai bên phải tìm cách chinh phục Vùng trung gian bao gồm phong trào giải phóng dân tộc ở ba lục địa Á - Phi - Mỹ Latin và các nước tư bản phương Tây. Ý đồ của Mao là ‘tọa sơn quan hổ đấu’, trong khi đẩy Xô - Mỹ đối đầu nhau, Trung Cộng nắm gọn vùng trung gian. Đây là cơ sở đẻ ra nhiều lý thuyết của Tư tưởng Mao Trạch Đông như ‘lý thuyết ba thế giới’, ‘nông thôn bao vây thành thị’... Mao cho rằng đã đến lúc có thể thực hiện được ý đồ ‘thiên hạ đại loạn, Trung quốc đại trị’, lấy chủ nghĩa Mao thay cho chủ nghĩa Mac-Lênin đã lạc hậu và từ đó thống trị cả thế giới, làm cho Trung Cộng trở thành ‘trung tâm cách mạng toàn cầu’.

Tại Hội nghị trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc năm 1956, chủ tịch Mao phát biểu: Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật và công nghiệp. Không thể chấp nhận rằng sau một vài thập kỷ, chúng ta vẫn chưa trở thành cuờng quốc số một thế giới. Tại Hội nghị trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1959, Mao nói: Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật và công nghiệp. Trung Quốc đã trở thành trung tâm chánh trị của thế giới. Trung Quốc cần trở thành trung tâm quân sự và kỹ thuật của thế giới. Tại Hội nghị Quân uỷ trung ương tháng 9-1959, Mao khẳng định: Chúng ta phải chinh phục cả trái đất. Đó là mục tiêu tối thượng của chúng ta. Tại Hội nghị quân sự mở rộng năm 1959, Mao tuyên bố: Chúng ta phải chinh phục toàn thế giới. Mục tiêu của chúng ta là toàn trái đất. Nhất định chúng ta phải thấm nhuần và thực hiện đến nơi đến chốn quyết tâm đó.

Sách trắng của Bộ Ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 4-10-1979 thú nhận: Ngay từ khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tháng 10-1949, những người cầm quyền ở Bắc Kinh đã bắt tay đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Mặc dầu nền kinh tế Trung Quốc còn lạc hậu, từ cuối những năm 50, họ đã ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược và hiện nay đang đẩy mạnh việc thực hiện hiện đại hóa về quân sự, về sản xuất và tích trữ vũ khí hạt nhân. Trong lĩnh vực kinh tế, điều giống nhau giữa đại nhảy vọt năm 1958 và bốn hiện đại hóa mới nêu ra vài ba năm nay là cả hai kế hoạch đó đều nhằm mục tiêu chiến lược bành trướng và bá quyền của những người lãnh đạo Trung Quốc.

Sau khi chiếm xong Hoa Lục năm 1949, Mao lập tức gửi cho Ấn Độ một công hàm vào năm 1950, khẳng định đường ranh giới Mac Mahon giữa Trung Quốc và Ấn Độ là không phù hợp và yêu cầu phải vẽ lại. Mao ra lệnh thôn tính Tây Tạng năm 1959, rồi cho công binh xây dựng xa lộ nối từ Hoa Lục xuyên qua Tây Tạng đến tận biên giới Ấn. Mao hậu thuẫn cho Pakistan tranh chấp với Ấn Độ vùng Kashmir. Đến mùa thu năm 1962, mượn cớ Ấn Độ đưa quân đến đóng đồn ở một số địa điểm nằm lấn qua ranh giới tranh chấp giữa hai nước ở miền bắc Kashmir, Trung Cộng bèn xua quân sang chiếm vùng Tawang của Ấn ngày 20-10-1962. Thủ tướng Nehru kêu cứu với Anh và Mỹ, được hai nước này giúp một số đại bác và phóng pháo cơ đến vùng biên giới Kashmir. Thấy Anh - Mỹ phản ứng mau lẹ, Trung Cộng liền rút quân về ngay, nhưng vẫn chiếm đóng vùng đất Ladakh và kiểm soát rặng núi Aksai Chin và con đường chạy dọc theo biên giới. Sau đó Ấn Độ cũng đành im hơi lặng tiếng lo phòng thủ phần đất còn lại. Đến lúc này, chủ thuyết không liên kết của thủ tướng Nehru cố công vận động bấy lâu nay trở thành phá sản mà chính đại quốc Ần cũng là một nạn nhân của chủ nghĩa bạo lực bành trướng không hề giấu giếm của Trung Cộng.

Ngày 2-3-1969, Trung Cộng lại xua quân định chiếm đảo Damansky nằm giữa sông Usscuri của Liên Xô, dọc theo biên giới Xô - Trung, với lý do đảo này theo lịch sử thuộc về Trung Quốc. Tuy nhiên lúc này Liên Xô mạnh hơn hẳn Trung Cộng, nên giao tranh đến giữa tháng 3, Liên Xô chết khoảng 100 quân, Trung Cộng chết đến cả ngàn, thấy khó thắng, Trung Cộng đành đề nghị hòa theo ranh giới cũ.

Với Trung Cộng, từ chỗ coi Liên Xô là đồng minh lớn nhất, họ đi đến chỗ coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất. Từ chỗ coi Mỹ là kẻ thù đế quốc nguy hiểm nhất mà bản chất không bao giờ thay đổi, họ đi đến chỗ coi Mỹ là đối tượng cần phải cố gắng hòa giải và giao hảo, nhưng những khi cơm không lành canh không ngọt lại tiếp tục chửi bới Mỹ bằng hệ thống thông tin quốc doanh độc quyền.

Cùng với việc lật ngược chánh sách liên minh của Trung Cộng trên thế giới, là những cuộc thanh trừng tàn bạo và đẫm máu ở trong nước, đàn áp những người chống đối, làm đảo lộn nhiều lần vai trò của những người trong giới cầm quyền. Có người hôm trước được coi là ‘nhà lãnh đạo cách mạng chân chính’, hôm sau trở thành kẻ thù, kẻ phản động cách mạng Trung Quốc, bị kết án tử hình, nhưng ít lâu sau lại đổi ra ca ngợi khi thế lực này giành lại được quyền lực tối thượng.  

2- Chánh sách Đông Nam Á trong Chiến lược toàn cầu của Trung Cộng 

Sách trắng Bộ Ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 4-10-1979 khẳng định: Đông Nam Á là lĩnh vực mà từ lâu những người lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ước mơ thôn tính.

Trong năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Edga Snew ở Diên An về thời trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật chiếm Cao Ly và Đài Loan, việc mất chủ quyền Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác: Đọc xong, tôi lấy làm thất vọng đối với tương lai đất nước tôi, và tôi bắt đầu nhận thức rằng bổn phận của mỗi người đóng góp cứu nước.

Năm 1939, trong quyển ‘Cách mạng Trung quốc và Đảng Cộng sản Trung Quốc’, Mao viết: Bọn đế quốc đã dùng sức mạnh để chiếm rất nhiều nước chư hầu của Trung quốc, cũng như một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ, Lữ Thuận; Anh chiếm Miến Điện, Bhutan, Népal và Hương Cảng; Pháp chiếm An Nam. (...) Nhiệm vụ trực tiếp của Trung Quốc là hoàn lại tất cả các đất đai của chúng ta chứ không phải chỉ là bảo vệ các quyền của chúng ta từ dãy Vạn Lý Trường Thành...

Trong ý đồ giành giật vùng trung gian Á - Phi - Mỹ Latin, thì châu Á là nơi Bắc Kinh cho rằng mình có nhiều ảnh hưởng, uy tín và triển vọng hơn cả để thực hiện âm mưu bá quyền, bành trướng. Một số nước châu Á có biên giới chung với Trung Cộng và đều ở trong tầm hoạt động  của Bắc Kinh. Nhưng phía bắc và phía tây Trung Cộng lúc đó là Liên Xô, vẫn tự xem là hạt nhân lãnh đạo cách mạng thế giới. Ở phía đông bắc có Nhật và Hàn Quốc là những đồng minh được Mỹ bảo vệ chặt chẽ. Trung Cộng đã thử một lần xúi giục Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc nhưng bị Mỹ đánh cho thất bại nặng nề thời kỳ 1950-53. Ở phía tây nam là Ấn Độ với dân số 700 triệu, có nền kinh tế độc lập và thực lực ngang ngữa với Trung Cộng. Do vậy, Bắc Kinh đã chọn Đông Nam Á là nơi có những nước vào loại vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam - Lào - Cambodia là những nước đã từng bị Trung Cộng khống chế, làm hướng bành trướng chủ yếu của mình.

Cuốn sách ‘Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại’ xuất bản ở Bắc Kinh năm 1959 có bản đồ vẽ lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả Đông Nam châu Á và vùng biển phía Đông Việt Nam.
Kế hoạch Đại Trung Quốc
 (đường chấm đỏ);
 
Yêu sách Lưỡi bò
độc chiếm Biển Đông


  
















Ý đồ bành trướng của những người lãnh đạo Trung Cộng đặc biệt lộ rõ ở câu nói của chủ tịch Mao trong cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn và Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Võ Hán vào năm 1963: Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á.  Cũng trong dịp này Mao so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về dân số thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi và nói rằng, Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan ở; đối với nước Lào đất rộng, người thưa, Trung Quốc cũng cần đưa người xuống Lào để ở.

Giới cầm quyền Bắc Kinh tính toán rằng: Thôn tính được Đông Nam Á không phải chỉ vì đây là hướng tốt nhất, cũng không chỉ vì vùng này giàu có về tài nguyên khoáng sản, mà điều quan trọng hơn là vì vùng này chiếm một vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng. Đông Nam Á nằm trên đường hàng hải quốc tế từ Đông Bắc Á, Thái Bình Dương sang Trung Cận Đông, châu Âu, châu Phi. Giành được Đông Nam Á sẽ có thêm 400 triệu dân, lúc đó Trung Quốc sẽ kiểm soát được 1,4 tỉ người; như vậy sẽ cô lập được Ấn Độ, buộc Ấn Độ phải ngã vào vòng tay mình; và khi đó, Trung Quốc sẽ khống chế được trên hai tỷ người, chắc chắn bàn cờ chiến lược bá chủ thế giới sẽ thực hiện được. Chính vì vậy, trong cuộc họp Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung quốc tháng 8-1965, Mao khẳng định: Chúng ta phải giành cho đươc Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai Á, Tân Gia Ba... Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy... Sau khi giành được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đối đầu với khối Liên Xô - Đông Âu và khối đế quốc phương Tây; gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây.

Sách trắng Bộ Ngoại giao Việt Cộng ngày 4-10-1979 khẳng định: So với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam Á là khu vực mà Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất (hơn 20 triệu Hoa kiều, các chính đảng lệ thuộc vào Đảng Cộng sản Trung quốc, Đông Nam Á có đường đất liền với Trung Quốc) để thực hiện chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên trong 30 năm qua, những người lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ. Họ xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, ỷ thế nước lớn, đe dọa bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ các nước và gây ra xung đột biên giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này nước khác trong khu vực.

Những năm 1960, Trung Cộng ra sức tập họp các lực lượng Á, Phi, Mỹ Latin để nắm quyền ‘lãnh đạo cách mạng thế giới’ và chống Liên Xô. Riêng ở Đông  và Đông Nam Á, Bắc Kinh đã áp đặt chủ nghĩa Mao cho 9 đảng thân Bắc Kinh: Đảng Lao động Triều Tiên, Đảng Lao động Việt Nam, Đảng Nhân dân cách mạng Kampuchea, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Indonésia, Đảng Cộng sản Philippines, Đảng Cộng sản Nepal, Đảng Cộng sản Mã Lai, Đảng Cộng sản Miến Điện. Năm 1963, Bắc Kinh ráo riết vận động 11 đảng cộng sản trong đó có 8 đảng ở Đông Nam Á thành lập một quốc tế cộng sản mới để đối chọi với Liên Xô, xây dựng nên cái gọi là trục Bắc Kinh - Jakarta - Phnom Penh - Hà Nội - Bình Nhưỡng. Thông qua tổng thống Indonésia Soukarno, Bắc Kinh vận động triệu tập Hội nghị các lực lượng mới trỗi dậy (GANEFO) để thành lập một tổ chức quốc tế đối lập với Liên Hiệp Quốc, đồng thời vận động tổ chức Hội nghị Á - Phi lần hai dự định họp ở Alger năm 1965.

Sách trắng Việt Cộng đã dẫn trên ghi rõ: Bắc Kinh chú trọng tác động với lực lượng Hoa kiều ở Đông Nam Á. Bắc Kinh cho rằng đây là một lực lượng quan trọng. Người Hoa ở Đông Nam Á vào thập kỷ 60 có đến 20 triệu, trong đó chiếm tỷ lệ cao ơ Singapore (75%), Mã Lai Á (40%) và tập trung nhiều ở các thành phố lớn như Bangkok, Jakarta, Sài Gòn, Phnom Penh... Tư bản Hoa kiều chi phối các mạch máu kinh tế then chốt các nước trong vùng. Giữa thập kỷ 50, vốn đầu tư của tư bản Hoa kiều ở Đông Nam Á là ba tỉ USD, đến giữa thập kỷ 60 con số đó tăng lên 6 tỉ USD, sang thập kỷ 70 là 16,3 tỉ USD và ngày càng tăng cao. Bắc Kinh hy vọng, nếu chiêu dụ bằng các quyền lợi chính trị, kinh tế, để làm chủ đội ngũ này thì có thể lũng đoạn và khống chế được Đông Nam Á. Muốn bành trướng xuống Đông Nam Á, Trung Cộng phải chiếm cho được Đông Dương.

Sách trắng Việt Cộng còn nêu ra một số dẫn chứng như:

- Trung Cộng thành lập và hỗ trợ các tổ chức cộng sản Mao ít, các sắc tộc thiểu số ở các nước thuộc khu vực này có ít nhiều nguồn gốc dân tộc ở Trung Quốc, để phục vụ cho chánh sách bành trướng và bá quyền của họ.

- Trong cuộc nói chuyện với các đại biểu Hoa kiều ở Bắc Việt đến chào mừng Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Trung Cộng do thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu thăm Bắc Việt tháng 5-1960, bộ trưởng Ngoại giao Trần Nghị phát biểu: Singapore có trên 90% là người Hoa, trong số dân hơn một triệu người thì hơn chín trăm ngàn là người Hoa, cho nên Singapore hoàn toàn phải trở thành một quốc gia do Trung Quốc chi phối.

- Những người cầm quyền Trung Quốc rêu rao cái gọi là ‘chủ quyền của họ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa’. Từ năm 1974, với sự đồng tình của thủ tướng Phạm Văn Đồng, Trung Cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ do Việt Nam Cộng Hòa quản lý, để từng bước kiểm soát biển Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á, đồng thời khai thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông. Trung Cộng hy vọng tập họp lực lượng ở Đông Nam Á để tiến tới tập họp lực lượng trên thế giới, hòng thực hiện chiến lược toàn cầu của họ.

- Trung Cộng gây hấn chiếm lãnh thổ của Ấn Độ năm 1962 và không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà Trung Cộng cho rằng có thể tranh giành với mình vai trò lãnh đạo Á - Phi.

- Trung Cộng vẫn chiếm giữ vùng Nội Mông của Mông Cổ, v.v...

Mặc dù nêu được những dẫn chứng như trên, nhưng Sách trắng 4-10-1979 vẫn chưa nêu ra được những vấn đề khác không kém phần quan trọng:

- Trung Cộng vẫn chiếm giữ các vùng Tây Tạng, Tân Cương, Xích Kim, Choang vốn trước đây là những quốc gia độc lập của các dân tộc tự chủ.

- Chính thế lực Việt Cộng và miền Bắc rồi cả nước Việt Nam dưới chế độ cộng sản chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ Trung Cộng hơn ai khác.

 

3- Việt Nam và Đông Dương trong chánh sách Đông Nam Á của Trung Cộng

 

Trong chiến lược toàn cầu của Trung Cộng, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng thì họ coi Việt Cộng là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được mục đích chiến lược.

Bước vào những năm 1950, khi bắt đầu công cuộc tái thiết để đưa Trung Cộng thành cuờng quốc thế giới, những người lãnh đạo Trung Cộng một mặt kích động và cùng với Triều Tiên xâm lược Hàn Quốc, một mặt giúp đỡ Việt cộng đánh Pháp ở Đông Dương để củng cố an ninh và mở rộng ảnh hưởng ở Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Trung Cộng là nước cung cấp nhiều võ khí và viện trợ nhất cho Việt cộng và có vai trò quyết định trong Hội nghị Geneva về Đông Dương. Có thể nói, không có sự giúp đỡ của Trung Cộng từ năm 1946 đến 1954 thì quân Việt cộng không thể chiếm được miền Bắc Việt Nam theo nghị quyết Hiệp định Geneva.

Sách trắng Bộ Ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 4-10-1979 thú nhận: Những người lãnh đạo Trung Quốc đã đứng ra làm người thương lượng chủ yếu với đế quốc Pháp, câu kết với chúng và cùng nhau thỏa hiệp về một giải pháp có lợi cho Trung Quốc và Pháp, không có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Họ đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba nước Đông Dương để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc ở phía Nam, để thực hiện mưu đồ nắm Việt Nam và Đông Dương, đồng thời để có vai trò là một nước lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, trước hết là ở Châu Á. Trong Hội nghị Geneva 1954, mà phần đầu dành cho vấn đề Triều Tiên, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên xuất hiện ngang hàng với bốn cường quốc ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Đó là cơ hội tốt cho những người lãnh đạo Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực châu Á và châu Phi. (...) Những người cầm quyền ở Bắc Kinh muốn duy trì lâu dài tình trạng Việt Nam bị chia cắt. (...) Cuối thập kỷ 60, Mỹ bị sa lầy trong cuộc chiến Việt Nam, một cuộc chiến đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính trị và xã hội của nước Mỹ, đồng thời làm suy yếu thêm vị trí của đế quốc Mỹ trên thế giới. Tổng thống Nixon đã đề ra kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh và theo kinh nghiệm của đế quốc Pháp năm 1954, dùng Trung Quốc hòng giải quyết vấn đề Việt Nam với những điều kiện có lợi cho đế quốc Mỹ: rút quân Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam, đồng thời chính quyền Nixon chơi con bài Trung Quốc để gây sức ép đối với Liên Xô, chống phong trào cách mang thế giới. (...) Những người lãnh đạo Trung Quốc  tăng cường chống Liên Xô và thỏa  hiệp với Mỹ để cố tạo  nên thế chân vạc ba nước lớn trên thế giới, đồng thời dùng vấn đề Việt Nam đổi lấy việc Mỹ rút khỏi Đài Loan. (...) Trong 30 năm qua, Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc. Đầu những năm 70, những người lãnh đạo Trung Quốc đã dùng lá bài Việt Nam phục vụ cho ý đồ chiến lược bành trướng đại dân tộc bá quyền nước lớn của họ. Đồng thời, họ mưu toan mọt mình khống chế cuộc kháng chiến chống Mỹ cuả nhân dân Việt Nam, để nâng  cao chiêu bài chống chủ nghĩa đế quốc, hòng nắm quyền lãnh đạo cách mạng thế giới, dìm ảnh hưởng của Liên Xô.

Sau khi quân Việt cộng chiếm đóng miền Bắc, giới cầm quyền Trung Cộng luôn thuyết phục và cỗ võ Bắc Việt thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ giải phóng miền Nam. Tháng 11-1956, Mao Trạch Đông nói với Hồ Chí Minh: Tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ kháng chiến. Nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm.

Đầu năm 1955, trong cuộc trao đổi ý liến với lãnh đạo Bắc Việt, ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, thứ trưởng Ngoại giao Trương Văn Thiên truyền đạt ý kiến của Bộ Chính trị Đảng Trung Cộng là: Ở miền Nam Việt Nam cần phải tiến hành trường kỳ mai phục, tích trữ lực lượng, liên hệ quần chúng, chờ đợi thời cơ, chuẩn bị tiến hành du kích chiến.

Sách trắng 4-10-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Cộng nêu rõ: Trong cuộc găp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Indonésia, Lào tại Quảng Đông tháng 9-1963, thủ tướng Chu Ân Lai chỉ thị: Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam Á. Đảng Trung Cộng đưa ra ‘Cương lĩnh 25 điểm về đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế’ và nổ lực triệu tập một hội nghị mười một đảng cộng sản, thực tế là để nắm vai trò ‘lãnh đạo cách mạng thế giới’ và lập một quốc tế cộng sản mới do Bắc Kinh khống chế. Trung Cộng thiết tha yêu cầu Bắc Việt  đồng tình và hứa hẹn viện trợ ồ ạt cho Việt Cộng. Tổng bí thư Đặng Tiểu Bình thông báo với Hồ Chí Minh rằng Trung Cộng sẽ viện trợ cho Bắc Việt một tỷ nhân dân tệ nếu Việt Cộng khước từ mọi viện trợ của Liên Xô. Nhưng Bắc Việt thấy rõ Trung Cộng không mạnh và có lắm dã tâm, nhưng Trung Cộng vẫn giữ vai trò quyết định cuộc chiến tranh nên vẫn cố sức đu dây giữa Liên Xô và Trung Công.

Cuối năm 1964, Mỹ dự định đưa quân vào Việt Nam và tìm cách thăm dò phản ứng của Trung Cộng. Tháng 1-1965, qua nhà báo Mỹ Edga Snew, Mao Trạch Đông tuyên bố: Quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau. Đó là điều hoàn toàn rõ ràng. Chỉ khi nào Mỹ tấn công, người Trung Quốc mới chiến đấu. Phải chăng như vậy là không rõ ràng. Người Trung Quốc rất bận về công việc nội trị của mình. Đánh nhau ngoài biên giới nước mình là phạm tội ác. Tại sao người Trung Quốc lại phải làm như vậy? Người Việt Nam có thể đương đầu với tình hình. Trong cuộc đàm phán Trung - Mỹ cấp đại sứ ở Vassaw, đại sứ Trung Cộng trích dẫn một câu nói của Mao là: Người không đụng đến ta thì ta không đụng tới người.

Từ tháng 2-1965, Mỹ đưa quân ồ ạt vào tham chiến ở Nam Việt Nam. Ngày 23-6-1965, thủ tướng Chu Ân Lai nói với tổng thống Ai Cập A.Nasser: Mỹ càng đưa nhiều quân vào Việt Nam thì chúng tôi càng vui lòng, vì chúng tôi biết rằng chúng tôi nắm chúng trong tay, chúng tôi có thể lấy máu chúng. Nếu ngài muốn giúp đỡ người Việt Nam thì cần khuyến khích Mỹ ném càng nhiều lính Mỹ vào Việt Nam càng tốt.

Đầu năm 1965, Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai ký một hiệp định quân sự bí mật, theo đó đến tháng 6-1965, Trung Cộng phải gửi phi công sang đào tạo phi công Việt Cộng và viện trợ thành lập lực lượng phòng không bảo vệ Hà Nội.

Tháng 3-1965, Việt Cộng và Trung Cộng tổ chức Hội nghị nhân dân ba nước Đông Dương họp ở Phnom Penh, thành lập ‘Mặt trận đoàn kết chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương’. 

Từ năm 1965, Trung Cộng khống chế được Saloth Sar (Pon Pot), thúc đẩy Khmer Đỏ tiến hành du kích chiến chống phá chánh quyền Sihanouk. Nửa cuối năm 1969, Sihanouk cử đại tướng Lon Nol làm thủ tướng. Lon Nol đưa ra tuyên bố quân Việt Cộng phải rút khỏi các căn cứ ở Cambodia và không được dùng cảng Sihanouk vào việc vận chuyển hậu cần. Quân Khmer Đỏ cũng bắt đầu yêu cầu quân Việt cộng rút khỏi các căn cứ Khmer Đỏ ở Cambodia.

Ngày 13-5-1968 khai mạc Hội nghị Paris. Bắc Việt chấp nhận hòa đàm vì kiệt quệ nặng nề sau các chiến dịch Mậu Thân với số thương vong trong cả năm 1968 là gần 600.000 cán binh. Trong cuộc gặp thứ trưởng Bộ Ngoại thương Bắc Việt ngày 9-10-1968 tại Bắc Kinh, bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng Trần Nghị phản đối Bắc Việt đang ngã về Liên Xô và yêu cầu phải  lựa chọn: Hoặc là muốn đánh thắng Mỹ thì phải cắt quan hệ với Liên Xô, hoặc là muốn thỏa hiệp với Mỹ, dùng viện trợ của Trung Quốc đánh Mỹ để đạt mong muốn đàm phán với Mỹ thì viện trợ của Trung Quốc sẽ mất hết ý nghĩa của nó.

Ngày 17-10-1968, Trần Nghị gặp đại sứ Bắc Việt Ngô Minh Loan, thông báo tuyên bố của giới lãnh đạo Trung Cộng về cuộc đàm phán Bắc Việt và Mỹ: Lần này nếu các đồng chí chấp nhận bốn bên đàm phán tức là giúp cho Johnson và Hamphray đạt được thắng lợi trong bầu cử, để cho nhân dân miền Nam Việt Nam vẫn ở dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ và bù nhìn, không được giải phóng, làm cho nhân dân miền Nam Việt Nam còn có khả năng bị tổn thất lớn hơn nữa. Như vậy giữa hai đảng và hai nước chúng ta còn cần nói chuyện gì nữa?. Đe doạ cắt quan hệ giữa hai đảng là một thủ đoạn trắng trợn, một sức ép lớn nhất của những người lãnh đạo Trung Cộng đối với Bắc Việt và Trung Cộng không chỉ đe dọa mà còn gây khó thật sự.

Năm 1968, khi bàn vấn đề viện trợ cho Bắc Việt trong năm 1969, lãnh đạo Trung Cộng giảm kim ngạch viện trợ hơn 20% so với kim ngạch viện trợ năm 1968. Tháng 8-1969, Chu Ân Lai nói: Thế Việt Nam định đánh hay hòa để Trung Quốc tính việc viện trợ? Năm 1970, Trung Cộng giảm kim ngạch viện trợ hơn 50% so với 1968.

Từ năm 1965 đến 1968, Trung Cộng cử hàng vạn chuyên gia, bộ đội công binh sang giúp Việt Nam làm đường.

Đến tháng 11-1968, Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc và ngồi vào bàn hội nghị bốn bên ở Paris, gồm Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từ đầu năm 1969.

Từ tháng 11-1968, Bộ Ngoại giao Trung Cộng ra tuyên bố ngõ ý muốn nối lại các cuộc đàm phán Trung - Mỹ ở Varsaw và cùng với Mỹ ký một thỏa thuận cùng tồn tại hòa bình. Tiếp đó, Trung Cộng đã đáp ứng tích cực những tín hiệu từ phía Mỹ. Sau khi lên nhậm chức tổng thống, Nixon báo cho phía Trung Cộng là các cuộc thảo luận giữa Mỹ và Trung Cộng có thể tiến hành ngay trên đất Trung Cộng. Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Cộng lập tức tuyên bố: Bản thân tổng thống Mỹ có thể được tiếp đón nồng hậu tại Bắc Kinh hoặc cử một phái đoàn đến để thảo luận về vấn đề Đài Loan.

Tháng 6-1970, Trung Cộng và Mỹ thỏa thuận là đại sứ Trung Cộng Hoàng Chấn và Kissinger sẽ tiến hành những cuộc đàm phán mỗi lần Kissinger đến Paris đàm phán với phía Bắc Việt.

Ngày 10-12-1970, Mao Trạch Đông thông qua nhà văn Edgar Snew mời tổng thống Nixon sang thăm Bắc Kinh: Ông ta chắc chắn sẽ được hoan nghênh vì hiện nay những vấn đề giữa Trung quốc và Mỹ phải được giải quyết trực tiếp với Nixon.

Tháng 3-1971, một đoàn bóng bàn Mỹ được mời sang thăm Trung Cộng, mở đầu cho thời kỳ mà dư luận thế giới gọi là ‘Ngoại giao bóng bàn’.

Tháng 7-1971 và tháng 10-1971, đặc phái viên của Nixon là Henry Kissinger sang Bắc Kinh. Tháng 2-1972, Nixon sang thăm Bắc Kinh. Thông báo cho phía Bắc Việt biết về chuyến đi thăm Bắc Kinh lần thứ nhất của Kissinger, ngày 13-7-1971, đoàn đại biểu cấp cao Trung Cộng nói: Vấn đề Đông Dương là quan trọng nhất trong cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và Kissinger. Kissinger nói rằng Mỹ gắn việc giải quyết vấn đề Đông Dương với việc giải quyết vấn đề Đài Loan. Mỹ nói có rút được quân Mỹ ở Đông Dương thì mới rút quân Mỹ ở Đài Loan. Muốn rút quân Mỹ ở Đài Loan thì chiến sự Việt Nam phải giải quyết ổn thỏa trước. Đối với Trung Quốc, vấn đề Trung Quốc vào Liên Hiệp Quốc chỉ là vấn đề số hai, còn việc quân Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam mới là vấn đề số một.

Khi Nixon kết thúc cuộc đi thăm Trung Cộng, hai bên ký Thông cáo chung Thượng Hải, ghi nhận kết quả cuộc hội đàm song phương, trong đó có đoạn: Mỹ khẳng định mục tiêu cuối cùng là rút hết các lực lượng và cơ sở quân sự Mỹ ra khỏi Đài Loan. Trong khi chờ đợi, tùy theo tình hình căng thẳng trong khu vực này giảm đi, Mỹ sẽ dần dần giảm lực lượng và cơ sở quân sự Mỹ ở Đài Loan.

Đầu tháng 3-1972, khi thông báo cho phía Bắc Việt về cuộc hội đàm với Nixon, đại diện lãnh đạo Trung Cộng giải thích về đoạn thông cáo trên như sau: Muốn bình thường hóa quan hệ Trung - Mỹ, muốn làm dịu tình hình ở Viễn Đông thì trước hết phải giải quyết vấn đề Việt Nam và Đông Dương. Trung Quốc không đòi giải quyết vấn đề Đài Loan trước, vấn đề Đài Loan là bước sau.

Thâm tâm của Bắc Kinh là lợi dụng vấn đề Việt Nam để giải quyết trước vấn đề Đài Loan. Nhưng Bắc Việt lại muốn Trung Cộng tăng viện trợ để hồi phục và tiếp chiến. Do đó, những người lãnh đạo Trung Cộng và Nixon mới thỏa thuận “Trong khi chờ đợi, tuỳ theo tình hình căng thẳng trong khu vực này giảm đi...” điều đó có nghĩa là nếu Bắc Kinh muốn thúc đẩy việc rút lực lượng và các cơ sở quân sự của Mỹ ra khỏi Đài Loan thì họ cần ép Hà Nội phải đi vào một giải pháp thỏa hiệp với Mỹ, đủ để Mỹ an tâm rút khỏi Đông Dương.

Để xoa dịu Hà Nội, Trung Cộng dùng cách tăng viện trợ, cốt để Hà Nội hiểu rằng, trước mắt hãy làm cho Mỹ an tâm về tình hình ở Đông Dương, để Mỹ rút hết quân ở Việt Nam và Đài Loan về nước, rồi khi quân Mỹ về nước rồi thì với viện trợ của Trung Cộng, miền Bắc ‘muốn làm gì chẳng được’. Ngày 18-7-1971, Trung Cộng thông báo cho Bắc Việt về phương án bốn điểm của Mỹ: Rút quân và thả tù binh trong 12 tháng kể từ ngày 1-8-1971. Ngừng bắn toàn Đông Dương và giải pháp theo kiểu Geneva năm 1954. Về quân sự, Mỹ vẫn muốn để lại một số cố vấn kỹ thuật. Về chánh trị, Mỹ sẽ tiếp tục ủng hộ chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu và chánh quyền Xirich Matac.

Tháng 11-1971, Mao Trạch Đông phát biểu chỉ thị với bí thư thứ nhất Đảng Lê Duẩn và thủ tướng Phạm Văn Đồng của Việt Cộng trong cuộc hội  đàm tại Bắc Kinh: Việt Nam nên tranh thủ thời cơ giải quyết trước vấn đề rút quân Mỹ và quan tâm giải quyết vấn đề tù binh Mỹ. Việc đánh đổ nguỵ quyền Sài Gòn là vấn đề lâu dài. Sau khi nhắc lại ý của phía Mỹ là Mỹ có nhiều bạn cũ, Mỹ phải giữ, Mao nói tiếp: Vấn đề Đài Loan là vấn đề trường kỳ, có lẽ mấy năm chưa giải quyết xong. Nếu quyết nhanh hay chậm thì tôi thiên về chậm hơn. Hiện nay, Tưởng có 650.000 quân, ở giữa lại có eo biển. Chúng tôi không sang được, nó vẫn cứ đóng ở đó. Chổi không đến nơi thì bụi không đi.

Sau khi Nixon kết thúc chuyến đi Bắc Kinh, Kissinger nói với các nhà báo ngày 1-3-1972 rằng, từ nay người Mỹ chỉ còn việc nhìn về Moscow và nghiền nát quân Việt cộng.

Từ tháng 4-1972, Mỹ ném bom trở lại và thả mìn phong tỏa các cảng Bắc Việt, đồng thời phối hợp với quân Việt Nam Cộng Hòa bình định cho xong miền Nam Việt Nam, để có thể đảm bảo việc ký Hiệp định Paris và rút hết quân Mỹ trong khi Việt Nam Cộng Hòa vẫn ổn định vững mạnh, đủ sức đương đầu với tàn quân cộng sản ở miền Nam.

Tại cuộc hòa đàm Paris, Mỹ yêu cầu để Mỹ rút quân về nước và chấp nhận Hiệp định Paris thì cộng sản Bắc Việt phải rút hết quân ra khỏi miền Nam và không được nhận viện trợ nước ngoài.

Ngày 1-11-1972, lãnh đạo Bộ Ngoại giao Trung Cộng thông báo với thứ trưởng Ngoại thương Bắc Việt: Mỹ yêu cầu Việt Nam nên nhân nhượng về hai vấn đề rút quân miền Bắc và miền Bắc không nhận viện trợ quân sự để có thể ký hiệp định.

Ngày 5-12-1972, đại sứ Trung Cộng Hoàng Chấn chuyển tới phía Bắc Việt lời của Kissinger: Đàm phán đã đến lúc có hậu quả nghiêm trọng: Bắc Việt đòi Mỹ hoặc trở lại hiệp định cũ hoặc chấp nhận một hiệp dịnh xấu hơn. Mỹ không thể chấp nhận cả hai điều kiện đó. Nếu Bắc Việt cứ giữ lập trường đó thì đàm phán đứt quãng và Mỹ sẽ có thể có những hành động bảo vệ nguyên tắc của mình.

Ngay sau đó, Mỹ ném bom tập trung vào Hà Nội, Hải Phòng. Bắc Việt phải chấp nhận yêu sách này của Trung Cộng và Hiệp định Paris được ký ngày 27-1-1973. Trong khi đó Mỹ cũng yêu sách Nguyễn Văn Thiệu phải có sự chấp nhận tương tự.

Ngày 18-3-1970, thủ tướng Lon Nol tuyên bố nắm quyền trong khi quốc vương Sihanouk vừa kết thúc chuyến thăm Moscow và đang trên đường sang thăm Bắc Kinh. Lon Nol tuyên bố đòi quân Việt cộng rút khỏi Cambodia. Ngay lập tức thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng sang Bắc Kinh gặp Sihanouk và Mao bàn việc phối hợp phát triển mặt trận chung chống Mỹ - Thiệu - Lon Nol.

Ngày 23-3-1970 tại Bắc Kinh, Sihanouk công bố ‘Bản tuyên cáo năm điểm’, lên án cuộc tiếm quyền của Lon Nol và kêu gọi dân chúng Cambodia đoàn kết chống lại. Ngày 25-3-1970, Bắc Việt tuyên bố ủng hộ bản tuyên cáo của Sihanouk. Sihanouk đứng ra làm chủ tịch Mặt trận thống nhất dân tộc Cambodia. Trung Cộng tổ chức Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương lần thứ nhất vào tháng 4-1970.

Sihanouk đề nghị triệu tập Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương lần hai vào cuối năm 1971 nhưng bị Pon Pot và Ieng Sary cầm đầu lực lượng Khmer Đỏ do Trung Cộng hậu thuẫn phản đối nên không họp được. Trong khi đó, Trung Cộng muốn tổ chức Hội nghị năm nước sáu bên (gồm Bắc Việt, Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam, Cộng sản Pathet Lào, Khmer Đỏ, Trung Cộng, Triều Tiên) họp tại Bắc Kinh nhằm mục tiêu chống đế quốc Mỹ - Nhật. Liên Xô gây sức ép lên Bắc Việt  nên hội nghị này cũng không họp được.

Trong suốt mấy năm liền từ 1965 đến 1972, Trung Cộng khống chế con đường vận chuyển quân sự qua ba nước Đông Dương. Trung Cộng giúp làm đường và vận chuyển phục vụ chiến trường từ miền Bắc đến miền Nam, Lào và Cambodia theo con đường mòn Hồ Chí Minh và cung cấp cho quân Việt cộng toàn bộ số xe vận tải, lái xe và khoảng 20.000 quân Trung cộng để đảm bảo công việc này.

Sau Hiệp định Paris, Trung Cộng ký hiệp định với Bắc Việt tiếp tục viện trợ trong năm  năm với mức như năm 1973. Tháng 10-1973, Bộ chỉ huy Các lực lượng vũ trang miền Nam Việt Nam bắt đầu công khai xé bỏ Hiệp định Paris, đồng loạt tấn công quân Việt Nam Cộng Hòa.

Trong lúc đó, Trung Cộng cũng bắt đầu công khai có hành vi xấu với Bắc Việt. Từ năm 1973, Trung Cộng bắt đầu cho quân lấn chiếm một số vùng đất ở các tỉnh biên giới Bắc Việt. Ngày 26-12-1973, Bắc Việt đề nghị mở cuộc đàm phán để xác định chánh thức đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ. Ngày 18-1-1974, Trung Cộng trả lời chấp thuận đề nghị đó, và đòi Bắc Việt không được tiến hành việc khoan thăm dò trong một khu vực rộng 20.000 cây số vuông trong vịnh Bắc Bộ do phía Trung Cộng ấn định. Trung Cộng đòi Bắc Việt ‘không để một nước thứ ba nào vào thăm dò vịnh Bắc Bộ vì việc đưa nước thứ ba vào thăm dò không có lợi cho sự phát triển kinh tế chung của hai nước và an ninh quân sự của hai nước’. Cuộc đàm phán về đường biên giới giữa Bắc Việt và Trung Cộng trong vịnh Bắc Bộ từ tháng 8 đến tháng 11-1974 đã không đi đến kết quả nào.

Ngày 19-1-1974, tức là một ngày sau khi Trung Cộng nhận đàm phán với Bắc Việt về vịnh Bắc Bộ thì Trung Cộng sử dụng lực lượng hải quân và không quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa đang do hải quân Việt Nam Cộng Hòa trấn giữ. Hành động này được sự đồng tình của Bắc Việt.

Cũng ngay sau khi Hiệp định Paris ký kết 1973 thì lực lượng Khmer Đỏ do Pon Pot - Ieng Sary cầm đầu ngã hẳn về phía Trung Cộng và thi hành chánh sách hai mặt với quân Việt cộng, vừa dựa vào Việt cộng vừa chống lại Việt cộng. Chánh sách hai mặt này cũng y hệt như Việt cộng ỷ thế Liên Xô để thi hành chánh sách hai mặt, vừa dựa vào Trung Cộng vừa chống lại Trung Cộng.

Trong khuôn khổ của thỏa hiệp Trung - Mỹ, giới cầm quyền Trung Cộng không đựơc viện trợ quân sự cho các lực lượng cộng sản ở Việt Nam, Lào, Cambodia. Trung Cộng từ chối đề nghị của Khmer Đỏ về tăng viện võ khí tiến công, bằng cách nhờ Bắc Việt cho Khmer Đỏ vay rồi Trung Cộng sẽ thanh toán với Bắc Việt sau.

Trong khi đó, Pon Pot - Ieng Sary tuyên bố Bắc Việt ký Hiệp định Paris là ‘phản bội cách mạng Cambodia một lần nữa’, để kích động hận thù dân tộc, gây tâm lý chống Việt Nam và kiếm cớ thanh trừng những người Cambodia trong hàng ngũ Khmer Đỏ thân Việt Cộng. Khmer Đỏ nhiều lần tổ chức những vụ đánh phá, cướp kho tàng, võ khí, tiến công bệnh việc và nới trú quân của quân Việt cộng trên đất Cambodia.

Sách trắng 4-10-1979 của Bộ Ngoại giao Việt Cộng cũng đã tố cáo Trung Cộng dùng ‘tập đoàn Pon Pot - Ieng Sary’ thực hiện chánh sách diệt chủng ở Cambodia, mặc dù trên thực tế Việt cộng cũng tích cực tham gia vào cuộc diệt chủng này trong giai đoạn từ tháng 4-1975 đến 1977, trước khi 57.000 quân Việt cộng đang chiếm đóng Cambodia bị liên minh của 90.000 quân Khmer Đỏ và 15.000 cố vấn Trung cộng đẩy lui về Việt Nam trong chiến dịch ‘làm sạch lãnh thổ’ ngày 30-4-1977.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 
- Lý Đăng Thạnh - LỊCH SỬ VIỆT NAM - Tập 15- Cuộc chiến Đông Dương lần ba (1975-95) và thời sau đó (1998).

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire